Vương cung thánh đường Đức Mẹ Hòa Bình (tiếng Pháp: Basilique Notre-Dame de la Paix) là một
tiểu vương cung thánh đường Công giáo La Mã dành cho
Đức Mẹ Hòa Bình nằm tại
Yamoussoukro, thủ đô hành chính của
Bờ Biển Ngà. Công trình này là tác phẩm của kiến trúc sư người
Libăng Pierre Fakhoury và được mệnh danh là
Nhà thờ Thánh Phêrô của Châu Phi. Nhà thờ được xây dựng từ năm 1985 đến 1989 với chi phí ước tính được đưa ra bởi các nhóm khác nhau. Một số thông tin cho rằng, chi phi xây dựng khoảng 175 triệu đôla Mỹ,
[2] 300 triệu đô la Mỹ,
[3] hoặc 400 triệu đô la Mỹ,
[4] thậm chí là 600 triệu đô la Mỹ.
[5] Thiết kế mái vòm và quảng trường chính được bao quanh lấy cảm hứng từ
Vương cung thánh đường Thánh Phêrô tại
Vatican,
[6] mặc dù nó không phải là một bản sao hoàn chỉnh. Những
viên gạch đầu tiên được đặt vào ngày 10 tháng 8 năm 1985 và được thánh hiến vào ngày 10 tháng 9 năm 1990 bởi Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II, người thay mặt cho Giáo hội Công giáo chấp nhận nhà thờ như là một món quà của
Félix Houphouët-Boigny, tổng thống đầu tiên của Bờ Biển Ngà.
[7][8][9]Nó là một phần của
Giáo phận Yamoussoukro. Mặc dù rất quy mô và hoành tráng nhưng nhà thờ này lại không phải là một Nhà thờ chính tòa.
Nhà thờ Thánh Augustinô cách đó chưa đầy 3 km
[10] có kích thước nhỏ hơn nhưng lại là nơi thờ phụng chính và là
ngai tòa giám mục của giáo phận Yamoussoukro.
[11]Sách Kỷ lục Guinness liệt kê Vương cung thánh đường Đức Mẹ Hòa Bình sau khi nó được hoàn thành trở thành nhà thờ lớn nhất thế giới, vượt qua công trình nắm giữ kỷ lục trước đó là Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Công trình có diện tích 30.000 mét vuông (320.000 sq ft)
[12] và cao 158 mét (518 ft).
[13] Tuy nhiên, nó cũng bao gồm cả nhà của giám mục và một dinh thự (tính trong tổng diện tích) không phải là một phần của nhà thờ. Vương cung thánh đường này có thể chứa tới 180.000 người so với con số 60.000 của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.
[14] Tuy vậy, các buổi lễ thông thường tiến hành tại vương cung này thường cũng chỉ có vài trăm người tham dự.
[15] Nó được quản lý bởi
Hội Tông đồ Công giáo Ba Lan và chi phí hàng năm ước đạt 1,5 triệu đôla Mỹ.
[12]